ツルの 恩返し
TIÊN HẠC TRẢ ƠN
鶴(つる):con hạc
恩返し(おんがえし):trả ơn, tạ ơn
心の優しい( こころのやさしい):trái tim nhân hậu
薪(たきぎ):củi
田んぼ(たんぼ): cánh đồng, ruộng
ワナ:bẫy chuột
かかる: bị mắc phải
もがく: giãy dụa, vùng vẫy
逃がす(にがす): thả ra, để mất, tuột mất
積もる(つもる): chất đống, chất
助ける(たすける): giúp đỡ, cứu sống
たたく: vỗ, đánh, đập
被る(かぶる): đội , mang, phủ lên
驚く(おどろく): ngạc nhiên, giật mình
訪ねる(たずねる): ghé thăm, viếng thăm
見当たる(みあたる): tìm thấy
暮れる(くれる): lặn ( mặt trời)
一晩(ひとばん): cả đêm
やっとのことで: sau nhiều khó khăn, vất vả
丁寧(ていねい): lịch sự, cẩn thận
揉む(もむ):xoa bóp
顔を見合わせる(かおをみあわせる): nhìn nhau
身寄り(みより): họ hàng
機(はた): khung cửi
糸(いと): sợi chỉ
屏風(びょうぶ): bình phong
織る(おる): dệt vải
覘く(のぞく): xem qua
綾錦(あやにしき): gấm, lụa
羽(はね): lông vũ
殿様(とのさま): lãnh chúa
見事(みごと): đẹp đẽ, quyến rũ
隙間(すきま): khe hở, kẽ hở
痩せこける(やせこける): gầy đi
嘴(くちばし): mỏ
羽毛(うもう): lông vũ ở cánh chim
引き抜く(ひきぬく): bứt, giật , nhổ lên
挟む(はさむ): kẹp vào, chèn vào
ごおん: ơn nghĩa
舞い上がる(まいあがる): bay vút lên. nhảy cẫng lên
見送る(みおくる): trông ngóng, chờ đợi, tiễn biệt
ーーーーーーーーーーーーーー
昔々、 貧しいけれど、 心の 優しい おじいさんと、 おばあさんが 住んでいました。
ある 冬の日、 おじいさんは 町へ たきぎを 売りに 出かけました。
すると、 途中の田んぼの 中で、 1わの ツルが、 ワナに かかって もがいていました。
おじいさんは、 かわいそうに おもって、 ツルを 逃がして やりました。
ツルは おじいさんの 頭の 上を 3ベん回って、 「カウ、カウ、カウ」と、 嬉しそうに ないて、 飛んでいきました。
Ngày xửa ngày xưa, có một ông lão tuy nghèo khổ nhưng có trái tim nhân hậu sống cùng với vợ. Một ngày tuyết rơi, ông lão đem củi lên thị trấn bán thì gặp một con hạc trắng bị mắc vào bẫy chuột đang giãy dụa giữa cánh đồng. Ông lão thấy con hạc đáng thương bèn thả nó đi.
" Quác, quác, quác" con hạc trắng mừng rỡ, lượn 3 vòng trên đầu ông lão rồi bay đi.
その夜、 雪が、 コンコンと 積もって 大雪に なりました。
おじいさんが おばあさんに、 ツルを 助けた話を していると、 家の戸を、 トントン、 トントンと、 たたく音がします。
「ごめんください。 あけてくださいまし」
若い女の人の 声です。
おばあさんが 戸を 開けると、 頭から 雪を被った娘が 立っていました。
おばあさんは おどろいて、
「おお、 おお、 寒かったでしょう。 さあ、 はやくお入り」
と、 娘を 家に 入れました。
「私は、 このあたりに 人を訪ねて 来ましたが、 どこを 探しても 見当たらず、 雪は 降るし、 日は 暮れるし、 やっとのことで、 ここまで 参りました。 どうか 一晩、 止めてくださいまし」
娘は、 丁寧に 手を ついて 頼みました。
「それは それは おこまりじゃろう。 こんな所で よかったら、 どうぞ、 お泊りなさい」
おじいさんが 言いました。
娘は 喜んで、 その晩は 食事の 手伝いなどして、 働いて 休みました。
Buổi tối hôm đó, tuyết rơi dày chất thành đống. Ông lão đang kể cho bà lão nghe chuyện mình cứu con hạc thì bên ngoài cửa có tiếng gõ cửa " cốc, cốc" và tiếng nói của một cô gái trẻ:
" Xin phép, cháu có thể vào nhà được không? Xin hãy mở cửa giúp cháu"
Bà lão ra mở cửa thì đứng bên ngoài là một cô gái trên người phủ đầu tuyết. Bà lão kinh ngạc nói:
" Này, này ngoài trời lạnh lắm, nhanh vào nhà đi" rồi đưa cô gái vào nhà.
Cô gái lễ phép nói: " Cháu đến thăm người quen ở gần đây nhưng tuyết rơi rồi, mặt trời cũng lặn mà vẫn không tìm được. Sau nhiều vất vả thì cháu đi đến đây. Xin hãy cho cháu trọ ở đây một đêm ạ?"
" Ôi, thật là tội nghiệp! Nếu cháu thích, xin mời ở lại đây" ông lão nói.
Cô gái vô cùng mững rỡ. Tối hôm đó, cô gái giúp ông bà lão chuẩn bị đồ ăn, làm việc và nghỉ ngơi"
明くる朝、 おばあさんが 目を 覚ますと、 娘は もう起きて、 働いていました。
いろりには 火が燃え、 鍋からは 湯気が 上がっています。
「まあまあ、 おそうじまで してくれたのかね」
おばあさんも おじいさんも、 驚きました。
次の日も、 その次の日も 大雪で、 家の戸を 開けることも できません。
娘は、 おじいさんの 肩を 揉んで くれました。
「なんて よく働く 娘さんじゃ。 なんて よくきのつく 優しい娘さんじゃ。 こんな娘が 家に いてくれたら、 どんなに 嬉しいじゃろう」
おじいさんと おばあさんは、 顔を 見合わせました。
すると、 娘が 頼みました。
「身寄りのない 娘です。 どうぞ、 この家に おいてくださいませ」
おじいさんと おばあさんは 喜んで、 それから 3人は、 貧しいけれど、 楽しい毎日を 過ごしました。
Sáng hôm sau, bà lão thức dậy thì đã thấy cô gái đang làm việc, lửa trong lò đã cháy, hơi nước bốc lên từ trong nồi.
"Ồ, cháu đã giúp chúng ta dọn dẹp rồi sao!" , ông bà lão vô cùng ngạc nhiên.
Những ngày tiếp theo, vì tuyết rơi dày nên không thể ra khỏi cửa.
Khi cô gái giúp ông lão bóp vai, ông lão nhìn nhau nói:
" Một cô gái chăm chỉ , hiền lành, lễ phép thế này, nếu cô bé như con ở lại với chúng ta thì thật là vui biết nhường nào"
" Con không có họ hàng thân thích. Xin hãy cho con ở lại đây" : cô gái nói.
Ông bà lão vô cùng vui sướng. kể từ đó, 3 người chung sống tui nghèo khổ nhưng mỗi ngày trôi qua đều rất vui vẻ.
ある日の こと、 娘が はたを 織りたいから 糸を 買ってくださいと 頼みました。
おじいさんが 糸を 買ってくると、 娘は はたの 回りに 屏風を 立てて、
「はたを 織りあげるまで、 だれも 覘かないで ください」
と、 いって、 はたを 織りはじめました。
キコバタトン、 キコバタトン。
娘が はたを 織って、 みっかが 立ちました。
「おじいさま、 おばあさま、 この あやにしきを 町へ 売りに行って、 帰りには また、 糸を 買ってきてくださいませ」
娘は 鳥の 羽の ように 軽い、 美しい 織物を 二人に 見せました。
おじいさんが 町へ 売りに行くと、 それを 殿様が 高い値段で 買ってくれました。
おじいさんは 喜んで、 糸を 買って 帰りました。娘は また、 はたを 織りました。
Một ngày nọ, vì cô gái muốn dệt vải nên đã nhờ ông lão đi mua chỉ giúp mình. Sau khi ông lão mua chỉ về, cô gái đứng sau bức bình phong quay khung cửi nói vọng ra:
" Cho đến khi quay sợi xong, mọi người xin đường nhìn vào" rồi bắt đầu dệt vải.
" kít cót, kít cót" . Cô gái dệt vải, 3 ngày thì xong.
" Bố, mẹ, tấm lụa này xin hãy mang lên thị trấn bán, lúc ra về, hãy mua giúp con một ít chỉ nữa.". Cô gái cho ông bà lão xem tấm vải nhẹ như lông vũ, tuyệt đẹp của mình.
Ông lão đem tấm vải lên thị trấn bán và được một lãnh chúa mua với giá rất cao. ông lão vô còng vui sướng, đi mua thêm chỉ rồi trở về nhà. Cô gái lại tiếp tục dệt vải.
「いったいどうして、 あんな 見事な 布を 織るのでしょう。 本の少し、 覘いて見よう」
おじいさんと おばあさんが、 屏風の 隙間から覘いて見ると、 そこに 娘は いなくて、 痩せこけた 1わの ツルが、 長いくちばしで 自分の 羽毛を 引き抜いては、 糸に 挟んで はたを 織っていました。
「おじいさんや、 おじいさんや」
驚いた おばあさんは、 おじいさんに、 このことを 話しました
キコバタトン、 キコバタトン。
はたの 音が 止んで、 まえよりも やせほそった 娘が、 布を かかえて 出てきました.
" Không biết tại sao con chúng ta có thể dệt được tấm vải đẹo thế này. Mình thử nhìn một chút xem sao'
Nói vậy, ông lão và bà lão liền thử nhìn vào khe hở của tấm bình phong, nhưng họ không nhìn thấy cô gái đâu mà chỉ thấy một con hạc gầy gò đang dùng chiếc mỏ dài bứt lông tơ của mình bện vào sợi chỉ để dệt vải.
" Ông lão, ông lão". Bà lão vô cùng kinh hãi kể lại chuyện cho ông lão nghe.
Kít cót, kít cót.
Tiếng khung dệt dừng lại, cô gái mang tấm vải bước ra.
「おじいさま、 おばあさま。 私は、 いつか たすけられた ツルで ございます。 ごおんを お返ししたいと おもって 娘になって まいりました。 けれど、 もう お別れで ございます。 どうぞ、 いつまでも おたっしゃで いてくださいませ」
そういったかと おもうと、 おじいさんと おばあさんが とめるもの きかず、 たちまち 1わのツルになって 空へ 舞い上がりました。
家の上を 3ベん回って、 「カウ、 カウ、 カウ」と 鳴きながら、 山の 向こうへ 飛んでいってしまいました。
「ツルよ。 いや、 娘よ。 お前も たっしゃで いておくれ」
おじいさんと おばあさんは、 いつまでも ツルを 見送りました。
それからのち、 二人は 布を 売った お金で、 幸せに 暮らしました。
" Thưa bố mẹ, con là con hạc ngày trước được bố cứu. Để trả ơn nghĩa của bố mẹ con đã trở thành con gái của hai người. Nhưng bây giờ xin được từ biệt tại đây. Con sẽ mãi mãi nhớ ơn bố mẹ"
Nói như vậy cô gái không ở lại cùng ông bà lão nữa mà bỗng biến thành một con hạc trắng bay vút lên trời.
" Quác, quác, quác" Con hạc trắng kêu lên, lượn quanh nhà 3 vòng rồi bay về hướng núi xa.
" Hạc ơi.... không không, con gái ta hãy ở lại đây"
Ông bà lão cứ mãi trông ngóng hạc trắng của mình.
Từ đó về sau, ông bà lão sống hạnh phúc bằng số tiền bán lụa.
おしまい
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top